Vụ án Lệ Chi viên năm 1442
đã dẫn đến họa tru di tam tộc với Nguyễn Trãi và gia đình ông. Nguyễn Công
Duẩn, một danh thần thời Lê sơ, con của Nguyễn Trãi, tước Hoằng Quốc công, may
thoát được, đưa gia nhân vào ẩn lánh ở ngoại trang làng Gia Miêu, huyện Tống
Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Từ đó, con cháu hậu duệ của ông dù đi đâu, ở
đâu cũng ghi quê quán: “Hà Trung phủ, Tống Sơn huyện, Gia Miêu ngoại trang”.
Các con của Nguyễn Công Duẩn
đều là những danh thần danh tướng nổi tiếng trong lịch sử. Con trai trưởng là
Nguyễn Đức Trung, tước Trình Quốc công đời Lê Thánh tông, đã sinh ra ngành
Tướng mà Tham tướng Triều Văn hầu Nguyễn Triều Văn (cha của Nguyễn Hữu Dật) gọi Nguyễn Đức Trung là Cao tổ khảo. Con trai
thứ tư của Công Duẩn là Nguyễn Như Trác, đỗ Tiến sĩ năm 1463, tước Phó Quận
công đã sinh ra ngành Vương mà Nguyễn Hoàng
là huyền tôn gọi Như Trác là Tằng tổ khảo (khảo cứu theo Như Hiên Nguyễn
Ngọc Hiền). Cùng chung dòng tộc nguồn cội nên con cháu hậu duệ dòng Nguyễn Hữu
được triều Nguyễn sau này ban ân gọi là “Quý hương nhân”.
Thời cuộc thế kỷ XVI, nước
ta lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Nhà Lê từ đỉnh cao của triều Hồng Đức – Lê
Thánh Tông cuối thế kỷ XV, khi chuyển giao thế hệ bỗng hụt hẫng do tranh giành
quyền lực nội bộ, tạo cơ hội cho các thế lực phong kiến cát cứ trỗi dậy. Nhà
Mạc cướp ngôi, nội chiến Nam
– Bắc triều kéo dài hơn 60 năm hao binh tốn của, dân chúng điêu linh. Nhà Lê
được các trung thần bảo vệ, đứng đầu là Nguyễn Kim. Khi Trịnh Kiểm lên thay nắm
binh quyền thì trở mặt giết con thầy, em vợ là Nguyễn Uông. Bản chất quân phiệt
để củng cố quyền lực lộ rõ. Nguyễn Hoàng vào Nam (1558) làm trấn thủ xứ Thuận
Hóa chỉ là giải pháp tình thế để tự cứu mình. Quá trình đấu tranh của Nguyễn
Hoàng ở xứ Thuận Hóa với các lực lượng đối lập để tồn tại và thực hiện chính
sách cai trị mềm dẻo để thu hút nhân tâm, nhân tài, vật lực, từng bước gây dựng
lực lượng , thanh thế, đã biến vùng Thuận – Quảng thành miền đất hứa.
Năm 1593, Nguyễn Hoàng về
lại Thăng Long mừng vua hồi Kinh sư càng thể hiện lòng trung thành phò vua Lê
và sự chân thành hợp tác với Trịnh Tùng, một thủ lĩnh nhưng cũng là một người
cháu gọi ông bằng cậu ruột. Nhạy cảm nhận thấy tham vọng quyền lực của Trịnh
Tùng, sau 7 năm phò vua và thực hiện nhiệm vụ một cách mẫn cán, vị lão tướng 75
tuổi buộc phải bày kế để về lại Thuận Hóa. Từ đó càng quyết tâm chấn hưng sự
nghiệp đàng trong. Tám mươi chín tuổi, 55 năm cai quản xứ Thuận – Quảng, lời
trăng trối với con trước lúc lâm chung cho thấy triết lý sống của cả đời Nguyễn
Hoàng (1525-1613): “Phàm đạo làm tôi phải trung, đạo làm con phải hiếu, tình
anh em bè bạn lấy tin yêu làm đầu, không được quay quắt tráo trở để mất nhân
tâm” (Trịnh Nguyễn diễn chí – tập 1, trang 122). Chính vì lẽ đó mà xứ Đàng
Trong trở thành miền đất hứa có sức hút đối với hiền tài Đàng Ngoài đầu thế kỷ
XVII.
Nguyễn Triều Văn
(1573-1648?) như trên đã nói,là người đồng hương, đồng tộc với Nguyễn Hoàng.
Sinh ra trong gia đình danh gia vọng tộc, nối đời làm tướng. Ở Thăng Long, ông
đã là Tham tướng, tước Triều Văn hầu. Năm 1608, khi 36 tuổi, ông đã rời Thăng
Long, chối bỏ quyền chức của chúa Trịnh ban cho, để lại gia đình làm con tin,
chỉ mang theo người con trai thứ năm mới lên 6 tuổi là Nguyễn Hữu Dật, lặn lội
vào Nam theo Nguyễn Hoàng, tìm miền đất hứa hẹn tương lai sáng sủa hơn; cha con
ông đã “nhập tịch ở Phong Lộc”.
Nguyễn Triều Văn là vị khởi
tổ của dòng tộc Nguyễn Hữu trên đất Quảng Bình. Bốn thế hệ kế tiếp của dòng tộc
Nguyễn Hữu, suốt thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, là những danh tướng văn
võ song toàn có công giữ đất, an dân, giúp các đời chúa Nguyễn chấn hưng đàng
trong, mở mang cõi bờ niềm Nam nước Việt. Thế hệ thứ nhất là Triều Văn hầu
Nguyễn Triều Văn (1573-1648?); thế hệ thứ hai là Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật
(1603-1680), con thứ năm của Triều Văn; thế hệ thứ ba,các con của Chiêu Vũ hầu
là Hào Lương hầu Nguyễn Hữu Hào (1542-1713), Trung Thắng hầu Nguyễn Hữu Trung,
Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700), Tín Quận công Nguyễn Hữu Khắc…; thế
hệ thứ tư, con trai trưởng của Nguyễn Hữu Hào (cháu đích tôn của Nguyễn Hữu
Dật) là Thiện Chánh hầu Nguyễn Hữu Thuyên…
Bốn thế hệ danh tướng đó đã
sinh ra con cháu hậu duệ sống ở mọi miền, nhưng phần mộ, đền thờ của các vị vẫn
còn lưu trên đất Quảng Bình mà tập trung là ở xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh,
tỉnh Quảng Bình.
Mộ Tham tướng Triều Văn hầu
Nguyễn Triều Văn táng ở An Đại sơn (bờ bắc sông Long Đại, nay ở bản Lâm Ninh,
xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh). Năm 1930, Đại thần Phúc Môn bá Nguyễn Hữu
Bài cho xây đền thờ, lăng mộ và dựng bia mộ ở đây.
Mộ Tĩnh Quốc công Nguyễn Hữu
Dật ở Động Phú xứ (Km11 Đường 10, thuộc địa phận Vạn Toàn xưa). Năm 1930, Đại
thần Nguyễn Hữu Bài cho xây lăng, dựng bia, nay cải táng ra ở Lòi Lăng – Áng
Sơn, xã Vạn Ninh. Đền thờ Tĩnh Quốc công thờ ông ở Vạn Toàn, nay là thôn Bến,
xã Vạn Ninh.
Mộ Vi (Võ) quận công Nguyễn
Hữu Hào táng ở Đập Chọ xứ cách phía nam núi Áng Sơn 1km, nay cải táng về Lòi
Lăng – Áng Sơn. Ông được thờ phụ tại đền thờ của cha là đền thờ Tĩnh Quốc công ở thôn Bến, Vạn Ninh.
Tại Lòi Lăng – Áng Sơn còn
nguyên táng 3 ngôi mộ mà dân Vạn Ninh tôn kính gọi là “mộ Tiên công”(mộ các vị
công hầu tiên liệt có công với nước) đó là mộ hai con trai Nguyễn Hữu Dật là
Trung Thắng hầu Nguyễn Hữu Thắng,Tín Quận công Nguyễn Hữu Khắc và mộ Thiện
Chánh hầu Nguyễn Hữu Thuyên, con trai trưởng của Nguyễn Hữu Hào, đích tôn của
Nguyễn Hữu Dật.
Mộ Vĩnh An hầu Nguyễn Hữu
Cảnh táng ở Thác Ro xứ, nay thuộc thôn Đại Thủy, xã Trường Thủy (Lệ Thủy); đền
thờ Đức Ông ở thôn Chương Tín, sau đổi là Phúc Tín, nay thuộc thôn Đại Phúc, xã
Vạn Ninh.
Từ Thăng Long đến Quảng
Bình, đến trời Nam đất Việt,
dòng tộc Nguyễn Hữu, hậu duệ của Nguyễn Trãi đã góp phần làm nên truyền thống
lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam .
(*)Cán bộ hưu trí tại Quảng
Bình.
NNC.TRẦN VĂN CHƯỜNG(*)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét